Đời sống tín ngưỡng và nghệ thuật Lý_Dục

Với Phật giáo

Lý Dục là ông vua rất sùng đạo Phật. Ngay từ khi là hoàng tử, ông đã dành nhiều thời gian tụng kinh niệm Phật, đàm đạo với các tăng ni. Ông đã ra lệnh xây cất nhiều chùa chiền trong nước. Mỗi khi bãi triều, ông cùng Tiểu Chu hậu mặc áo cà sa, đội mũ tăng già đến chùa lễ Phật.[11]

Với việc sản xuất giấy và nghiên mực

Ông thích thu thập tứ bảo, hoàn thiện khâu chế tác. Tự Lý Dục đích thân đôn đốc việc sản xuất mực Huy, giấy Tuyên, nghiên Xá – đặc sản nổi tiếng của vùng An Huy.

Tại Tuyên châu có người thợ biết làm giấy từ tre nứa. Ông cho mời vào cung, sai mở xưởng giấy ở Trừng Lâm Đường là nơi gần rừng trúc làm nguyên liệu. Khi đến xem thợ sản xuất thấy họ bận rộn, ông cũng chen vào làm giúp.[20] Loại giấy do Trừng Tâm Đường làm ra trở thành nổi tiếng với chất lượng rất cao.[20]

Xá châu nổi tiếng về nghề làm nghiên, cũng được ông quan tâm và đặt ra Nghiễn vụ nha môn trụ trách việc sản xuất và cải tiến kỹ thuật.

Nghệ thuật

Tiếp thu truyền thống nghệ thuật của cha, Lý Dục cũng là một nhà thơ, từ, họa sĩ và nhà thư pháp Trung Quốc thế kỷ 10.[2][3] Những bài từ nổi tiếng của ông khi còn trong cung đình là "Hoán khê sa", "Bồ tát man" với bút pháp nhuần nhuyễn, muôn màu sắc.[2] Trong những bài từ sáng tác khi bị tù ở Biện Kinh, nổi tiếng có "Tương kiến hoan" hay "Ngu mỹ nhân", và "Lãng đào sa" là một danh tác.[18] Ông được người đời sau ca ngợi là Thiên cổ từ đế (千古词帝).

Về sự nghiệp sáng tác từ của ông, việc thay đổi địa vị một ông vua đến thân phận một tù nhân, làm cho từ của Lý Hậu Chủ chia ra thành hai thời kỳ khác nhau.

  • Ở thời kỳ trước; những bài từ của ông có tình điệu vui tươi, chủ yếu phản ánh cuộc sống xa hoa và ăn chơi của người đứng đầu cung đình. Tiêu biểu là những bài làm theo điệu Ngọc lâu xuân, Hoán khê sa,... Song, nhìn chung, từ trong gian đoạn này, tuy về nghệ thuật chứng tỏ một tài năng, nhưng tầm tư tưởng bị hạn chế, giống phong cách Hoa gian phái (phái "Trong Hoa") chuyên làm thơ diễm tình.
  • Ở thời kỳ sau; do thân bị cầm tù, bị hành hạ nên những bài từ trong giai đoạn này đã dứt bỏ được sắc màu ăn chơi, mà chan chứa nỗi đau u uất của một kẻ bất hạnh. Tiêu biểu là những bài làm theo điệu Ngu mỹ nhân, Lãng đào sa,...Và mặc dù có sự cảm thụ sâu sắc về cuộc sống cực nhục mà mình nếm trải, song từ của ông vẫn thiếu một ý nghĩa xã hội sâu sắc.

Sau Lý Hậu Chủ, từ bắt đầu được phát triển song song và được coi trọng như thơ ca cổ điển. Sang thời Tống liền đó, từ đạt tới một trình độ rất cao, và trở thành một thể loại tiêu biểu của một thời đại.[21]

Giang hành sơ tuyết (江行初雪), vẽ bởi Nam Đường họa sư Triệu Cán (趙幹), Bảo Tàng quốc gia Đài Loan. Hàng chữ bên tay phải của tác phẩm là ngự bút của Lý Dục.

Thư pháp của ông rất đặc biệt, được mọi người gọi là "Kim thác đao".[3] Trong lĩnh vực hội họa, Lý Dục thích vẽ tranh bằng mực. Ngoài ra, ông còn yêu thích âm nhạc và thông hiểu âm luật.[3] Đương thời loạn lạc, những thành tựu về văn hóa của nước Nam Đường được đánh giá là đừng đầu thời Ngũ đại Thập quốc.[20]

Giới thiệu tác phẩm

Chưa rõ Lý Hậu Chủ đã để lại bao nhiêu bài từ, song những bài còn lưu lại đều hay. Dưới đây là hai trong số bài từ tiêu biểu của ông.

虞美人...春花秋月何時了,往事知多少。小樓昨夜又東風,故國不堪回首月明中。雕欄玉砌應猶在,只有朱顏改。問君能有幾多愁,恰似一江春水向東流。Ngu mỹ nhân...Xuân hoa thu nguyệt hà thời liễu?Vãng sự tri đa thiểu!Tiểu lâu tạc dạ hựu đông phong,Cố quốc bất kham hồi thủ nguyệt minh trung!Điêu lan ngọc khám ưng do tại,Chỉ hữu chu nhan cải.Vấn quân năng hữu kỷ đa sầu?Cáp tự nhất giang xuân thủy hướng đông lưu.Mỹ nhân họ Ngu...Xuân hoa thu nguyệt bao giờ hết?Việc cũ biết nhiều ít!Đêm qua lầu nhỏ lại gió đông,Nước cũ về chẳng được, ánh trăng trong!Bệ ngọc chừng còn đó,Hồng nhan buồn đã đổi.Ai ơi xin hỏi sầu mấy hồi?Nào khác dòng xuân hướng đông trôi.[22]
浪淘沙...簾外雨潺潺,春意闌珊,羅裳不耐五更寒。夢裏不知身是客,一晌貪歡。獨自莫憑欄,無限江山,別時容易見時難。流水落花春去也,天上人間。Lãng đào sa...Liêm ngoại vũ sàn sàn,Xuân ý lan san,La thường bất nại ngũ canh hàn.Mộng lý bất tri thân thị khách,Nhất hướng tham hoan.Độc tự mạc bằng lan,Vô hạn giang san,Biệt thời dung dị kiến thời nan.Lưu thuỷ lạc hoa xuân khứ dã,Thiên thượng nhân gian.Lãng đào saRả rích mưa tuôn,Lòng những bàn hoàn,Vạt là không ấm suốt canh tàn.Trong mộng nào hay mình ở trọ,Chợt thấy vui tràn.Một mình tựa lan can,Bát ngát giang san,Chia tay thì dễ, gặp lại khó khăn.Nước trôi hoa rụng xuân qua đó,Thiên đường nhân gian.[23]